Một trang trại chăn nuôi lợn ở Hà Tĩnh (ảnh: Đ.h)
(dcsvn) – Mô hình kinh tế trang trại trong sản xuất nông nghiệp nước ta đã ra đời, hình thành và phát triển ở những năm gần đây Không ngừng mở rộng và phát triển. Kinh tế nông nghiệp phát triển có lợi là giúp người dân nâng cao lợi thế so sánh, mở rộng quy mô sản xuất nông nghiệp hàng hóa, nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh trong cơ chế thị trường.
Phát triển kinh tế nông nghiệp, phát triển và sử dụng hiệu quả đất đai, vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, thúc đẩy nông nghiệp phát triển bền vững; tạo việc làm và nâng cao thu nhập; khuyến khích phát triển đi đôi với xóa đói, giảm nghèo; cơ cấu lại lao động và dân số, và xây dựng nông thôn mới. Phát triển kinh tế nông nghiệp đã góp phần quan trọng vào quá trình chuyển dịch, tích tụ ruộng đất trong quá trình phân bố lại lao động nông thôn, lao động nông nghiệp chuyển dần sang khu vực phi thương mại. Nông nghiệp, tạo điều kiện thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn.
Nhằm nâng cao giá trị gia tăng của đất đai trên một đơn vị diện tích, nhà nước đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích phát triển các mô hình kinh tế nông nghiệp phù hợp với đặc điểm của từng vùng. Hiện nay, trên đất nước tôi đã hình thành các trang trại chăn nuôi, trang trại chăn nuôi, trang trại trồng rừng, trang trại nuôi trồng thủy sản, trang trại thông thường… Nhiều mô hình khác nhau đã được hình thành. Tận dụng đất trống, núi trọc, đất hoang hóa, ao hồ, đầm phá, phù sa ven sông… để thực hiện sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản theo hướng chuyên canh, tỷ trọng hàng hóa cao. Đồng thời, việc hình thành đa dạng các mô hình trang trại cũng đã phát huy hiệu quả của các mô hình trang trại thâm canh cao, ít chiếm đất, nhiều lao động, gắn với chế biến, thương mại và dịch vụ. Giá trị kinh tế.
Để hình thành và phát triển các loại hình kinh tế nông nghiệp, nhà nước cũng đã đưa ra nhiều chính sách nhằm thúc đẩy nông nghiệp phát triển có hiệu quả như chính sách đất đai, chính sách thuế, chính sách thuế, chính sách đầu tư, chính sách tín dụng, chính sách lao động, chính sách nông nghiệp, v.v… Chính sách môi trường và thị trường…sự ra đời của các chính sách này đã làm cho mô hình kinh tế nông nghiệp và nhiều thành phần kinh tế của nước ta phát triển nhanh chóng. Kinh tế nông nghiệp phát triển đã tạo thêm nhiều cơ hội việc làm cho lao động di cư, góp phần xóa đói, giảm nghèo, gia tăng sản phẩm nông nghiệp. Nhiều trang trại sản xuất và cung ứng giống tốt, cung cấp dịch vụ, kỹ thuật, tiêu dùng sản phẩm cho nông dân trong vùng, tạo nguồn cung ổn định cho các cơ sở chế biến, tạo ra nhiều sản phẩm chất lượng phục vụ xuất khẩu.
Thành tích
Theo kết quả sơ bộ của Ban Chỉ đạo Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản Trung ương, năm 2011, cả nước có 20.065 trang trại (theo chuẩn mới). Trong đó, riêng vùng ĐBSCL và Đông Nam Bộ có 11.697 trang trại, chiếm 58,3% tổng số trang trại cả nước. Trung du và miền núi phía Bắc có số trang trại thấp nhất với 587 trang trại, chiếm 2,9%. Khu vực này chủ yếu là các trang trại chăn nuôi, với 506 trang trại. Do đặc điểm tự nhiên của nước ta khác nhau nên tỷ trọng các loại hình phát triển kinh tế nông nghiệp cũng khác nhau nhằm tối ưu hóa hiệu quả điều hành. Tính đến năm 2011, cả nước có 8.642 trang trại, chiếm 43% tổng số trang trại; 6.202 trang trại, chiếm 30,9%; 4.443 trang trại, chiếm 22,1%; 737 trang trại tổng hợp, chiếm 3,7%; 0,3%. . Số liệu trên cho thấy, số lượng trang trại tập trung chủ yếu ở vùng Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long và Tây Nguyên với tổng số 7.089 trang trại, chiếm 90,4% tổng số trang trại của cả nước. Số lượng trang trại tập trung chủ yếu ở vùng Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long với 4090 trang trại, chiếm 92,3% tổng số trang trại. Số lượng trang trại tập trung chủ yếu ở vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Hồng với 4.240 trang trại, chiếm 68,3% tổng số trang trại.
Tính đến năm 2011, diện tích đất nông nghiệp, lâm nghiệp và mặt nước nuôi trồng thủy sản của các trang trại chiếm 157.600 ha, bình quân 7,9 ha/trang trại. Trong tổng diện tích trên, diện tích đất trồng cây lâu năm chiếm tỷ trọng lớn nhất là 78.000 ha (chiếm 49,5%), diện tích đất trồng cây hàng năm là 36.700 ha (chiếm 23,3%), diện tích cây hàng năm 36.700 ha (23,3%), diện tích chăn nuôi 34.200 ha (chiếm 21,7%). Điều này cho thấy cơ sở vững chắc để tạo nguồn nguyên liệu cho các cơ sở chế biến và hàng hóa cho tiêu dùng, sản xuất và xuất khẩu. Các loại hình trang trại phát triển góp phần quan trọng giải quyết việc làm cho lao động nông thôn. Các trang trại trên cả nước đã tạo công ăn việc làm, cung cấp việc làm lâu dài cho gần 100.000 lao động, cũng như một số lượng lớn lao động thời vụ và lao động tạm thời tại địa phương. Ngoài giải quyết việc làm, kinh tế nông nghiệp còn đóng góp đáng kể vào sự phát triển chung của nền kinh tế. Năm 2011, tổng thu nhập sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản của trang trại đạt gần 39 nghìn tỷ đồng (chiếm khoảng 6% giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản), bình quân mỗi trang trại đạt 422,5 triệu đồng. Điều đáng chú ý là vùng Bắc Trung Bộ và miền núi tuy có số lượng trang trại ít nhất nhưng lại là vùng có tổng thu nhập từ sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản bình quân/trang trại cao nhất, bình quân 2.868 tỷ đồng. Tiếp đến là Đồng bằng sông Hồng 2.519 tỷ đồng, Đồng bằng sông Cửu Long 1,54 tỷ đồng và thấp nhất là Tây Nguyên 1.315 tỷ đồng. Một kết quả khả quan nữa là tỷ lệ sản phẩm hàng hóa các trang trại bán ra chiếm 98,1% tổng giá trị sản phẩm hàng hóa. Vì vậy, kinh tế nông nghiệp là một trong những phương thức sản xuất thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển theo hướng hàng hóa lớn.
Các vấn đề còn lại
Kinh tế nông nghiệp tuy phát triển nhanh nhưng vẫn còn một số tồn tại cần phải khắc phục càng sớm càng tốt, đó là: kinh tế nông nghiệp vẫn chủ yếu là nông dân, hộ nông dân, gia đình cán bộ, công nhân viên đã nghỉ hưu. Sự tham gia của các thành phần kinh tế, nhất là vốn nước ngoài chưa cao. Phần lớn diện tích trang trại đều dưới hạn mức đất đai, nguồn vốn đa dạng nên việc quản lý, sử dụng đất đai để phát triển kinh tế trang trại còn nhiều bất cập. Mặt khác, các trang trại chủ yếu sử dụng lao động gia đình, một số trang trại sử dụng lao động thời vụ và lao động thường xuyên, tiền công lao động chỉ được trả theo hình thức thỏa thuận đôi bên, chưa thực sự ổn định việc làm. Hầu hết các quỹ đầu tư là vốn tự có và vốn vay từ cộng đồng. Vốn vay từ các tổ chức tín dụng chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ. Nhiều nơi lấy nông nghiệp làm chủ đạo, công tác quy hoạch sản xuất, thủy lợi, điện, thị trường… chưa được thực hiện tốt, nhiều trang trại còn loay hoay trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Không hiếm những nông dân chăn nuôi bò sữa phải đổ bỏ hàng trăm tấn sữa vì không ăn được. Nhiều hộ nông dân vẫn sản xuất theo phương thức truyền thống, chưa chú trọng ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào quá trình sản xuất, chưa tìm hiểu thị trường đầu ra của sản phẩm nên năng suất, chất lượng chưa cao, sản lượng sản phẩm thấp, đôi khi còn gặp nhiều khó khăn. để bán sản phẩm… …
Một số giải pháp
Để kinh tế nông nghiệp hình thành một lực lượng mới trong sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông thôn, nhiều vấn đề đặt ra cần phải giải quyết càng sớm càng tốt, đó là: tất cả các địa phương phải rà soát lại kế hoạch phát triển kinh tế của mình. Trên cơ sở xác định quỹ đất phát triển trang trại, các địa phương công bố quỹ đất có thể giao, cho thuê để phát triển trang trại. Tăng cường xây dựng kết cấu hạ tầng, nhất là hệ thống thủy lợi, giao thông, cấp điện, cấp nước, cơ sở công nghiệp chế biến, cơ sở sản xuất và cung ứng giống cây trồng vật nuôi… đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất trang trại. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các Trung tâm Khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư để hỗ trợ, đào tạo nông dân hiểu biết hơn về thị trường, kỹ thuật mới, nâng cao trình độ quản lý. Tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ tài chính của nhà nước để phát triển kinh tế nông nghiệp, theo tình hình mới, các trang trại được nhà nước khuyến khích đầu tư phát triển được miễn thuế thu nhập. Tạo điều kiện để các trang trại tích cực tham gia bảo hiểm nông nghiệp, góp phần giảm thiểu rủi ro thiên tai, dịch bệnh, sớm khôi phục sản xuất. Đồng thời, tăng cường hướng dẫn, kiểm tra kinh tế trang trại để nông dân thực hiện đầy đủ việc bảo vệ môi trường, tạo ra những sản phẩm nông nghiệp sạch, đảm bảo vệ sinh, an toàn thực phẩm, có giá trị kinh tế cao, nâng cao sức cạnh tranh trong và ngoài nước. .