Như chúng ta đã biết, rừng là một hệ sinh thái bao gồm thực vật rừng, động vật rừng, nấm, vi sinh vật, đất rừng và các yếu tố môi trường khác, có độ cao được xác định theo đồi đất, đồi đá, đất ngập nước, đất cát pha, hoặc các loại thực vật đặc trưng khác, diện tích liên vùng từ 0,3 héc ta trở lên, độ tàn che từ 0,1 héc ta trở lên. Bảo vệ và phát triển rừng có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự nghiệp phát triển đất nước. Tỷ lệ che phủ rừng là một trong những tiêu chí đánh giá sự thành công của các chương trình bảo vệ và phát triển rừng.
Cơ sở pháp lý:
– Luật Lâm nghiệp 2017.
Tổng đàiLuật sưTrực tuyến 24/7: 1900.6568
1. Độ che phủ của rừng là gì?
Theo Điều 2 Khoản 5 Luật Lâm nghiệp 2017, tỷ lệ che phủ của rừng được hiểu là tỷ lệ phần trăm của diện tích rừng tại một khu vực địa lý nhất định trên tổng diện tích đất tự nhiên. Nâng cao độ che phủ của rừng là một trong những vấn đề được Đảng và Nhà nước quan tâm, được quy định rõ ràng trong các văn bản quy phạm pháp luật.
Cụ thể, Điều 3 Luật Lâm nghiệp 2017 quy định:
– Rừng được quản lý bền vững về quy mô và chất lượng bảo đảm phối hợp các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo tồn đa dạng sinh học, tăng độ che phủ của rừng và ứng phó với biến đổi khí hậu.
– Xã hội hóa hoạt động lâm nghiệp, bảo đảm lợi ích quốc gia gắn với lợi ích của chủ rừng, tổ chức, cá nhân hoạt động lâm nghiệp.
– Đảm bảo tổ chức chuỗi từ bảo vệ rừng, phát triển rừng, sử dụng rừng đến chế biến, thương mại lâm sản để nâng cao giá trị rừng.
– Bảo đảm tính công khai, minh bạch và sự tham gia của các tổ chức, gia đình, cá nhân và cộng đồng có liên quan trong hoạt động lâm nghiệp.
Xem thêm:Chính sách bảo tồn và phát triển rừng quốc gia
– Tuân thủ các điều ước quốc tế có liên quan đến lâm nghiệp mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; nếu điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết có quy định khác với luật này hoặc các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam không có quy định thì áp dụng các quy định tại điều này của điều ước quốc tế.
2. Độ che phủ rừng ở Việt Nam:
Trong những năm gần đây, công tác bảo vệ và phát triển rừng của nước ta đã có những bước phát triển vượt bậc, trong đó tỷ lệ che phủ rừng của nước ta đã đạt gần 42% – đây là một con số vô cùng ấn tượng. Tỷ lệ che phủ rừng trung bình của các nước trên thế giới chỉ khoảng 29%.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, thông qua công tác bảo vệ và phát triển rừng, tỷ lệ che phủ rừng của nước ta từ năm 2008 đã tăng lên 38,7%/năm và đến năm 2021, nước ta tỷ lệ che phủ rừng đạt khoảng 42%. Cụ thể, sau năm 2021, tỷ lệ che phủ rừng của nước ta hiện đạt khoảng 42,02%, tăng 0,01 điểm phần trăm so với năm 2020.
Cùng với đó, ngành lâm nghiệp cũng đạt được những thành tích đáng ghi nhận, với diện tích trồng rừng đạt hơn 277.830 ha. trồng được 98,96 triệu cây phân tán, vượt 8% kế hoạch năm và tăng 13% so với cùng kỳ năm trước.
Năm 2021 cũng là năm ghi nhận số vụ vi phạm về bảo vệ rừng, diện tích rừng bị chặt phá giảm so với năm 2020. Cụ thể, số vụ bảo vệ rừng trái pháp luật đã giảm hơn 13%. Trong cùng thời gian, diện tích rừng bị thiệt hại giảm 852 ha, giảm 6% so với cùng kỳ năm trước.
Từ năm 2021 đến năm 2023, mục tiêu chiến lược phát triển lâm nghiệp nước ta là duy trì ổn định tỷ lệ che phủ rừng 42%-43%. Phấn đấu đến năm 2030 diện tích rừng sản xuất đạt khoảng 340.000 ha, chủ yếu là rừng trồng thay thế. Quan tâm hơn nữa việc khoanh nuôi, bảo vệ rừng đặc dụng và hệ thống vành đai che chắn ở miền núi và ven biển. Hàng năm bổ sung khoảng 4.000 – 6.000 ha rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, phấn đấu phục hồi khoảng 150.000 ha rừng.
Bên cạnh những thành tựu đạt được vẫn còn những tồn tại sau:
Trước hết, rừng sản xuất vẫn chiếm phần lớn diện tích:
Xem thêm:Mức phạt vi phạm hành chính về bảo vệ rừng
Các chuyên gia cho rằng, mặc dù tỷ lệ che phủ rừng của nước ta đã đạt 42% nhưng chất lượng rừng nước ta không được đảm bảo. Năm 1945, đất nước tôi rừng tự nhiên chiếm ưu thế, nay trong tổng diện tích hơn 14 triệu ha rừng chỉ còn 2,15 triệu ha là rừng đặc dụng, còn 4,6 triệu ha là rừng trú ẩn và rừng sản xuất, vẫn còn chiếm đa số.
Những năm gần đây, Chính phủ Trung Quốc đã quan tâm hơn đến vấn đề trồng rừng, bình quân hàng năm cả nước trồng được 230.000 ha rừng, trong đó 215.000 ha là rừng sản xuất.
Diện tích rừng trồng tuy có tăng nhưng phần lớn là cây công nghiệp vì mục đích kinh tế nên không bền vững, đặc biệt là không đa dạng sinh học, không giúp chống lũ, hay như rừng nguyên sinh, đặc biệt là hồ chứa nước ngầm Tương tự – tận dụng lợi thế của rừng.
Bà Đỗ Thị Thanh Huyền – Giám đốc kiêm người sáng lập Trung tâm Bảo tồn Thiên nhiên Gaia (thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam) cũng chia sẻ, 54/63 tỉnh có rừng đặc dụng và 59/63 tỉnh có rừng che nắng, nhưng tỷ trọng và chất lượng rừng tự nhiên chưa cao.
Ví dụ như Vườn quốc gia Bến Tre, tỉnh Thanh Hóa đã bị khai thác đến mức tối đa tất cả các nguồn tài nguyên gỗ, động thực vật trước đây. Kể từ khi thành lập Vườn quốc gia Benn vào năm 1992, chính phủ đã thực hiện các chương trình trồng rừng để làm giàu rừng nhưng đến nay, ở Benn còn khoảng 3.000 ha rừng rất cằn cỗi, chủ yếu là tre nứa và cây bụi.
Thứ hai, phát triển lâm nghiệp phụ thuộc vào kết quả hoạt động:
Như chúng ta đã biết, rừng nhân tạo, đặc biệt là rừng trồng cây công nghiệp vì mục đích kinh tế không thể bù đắp được chức năng phòng hộ sinh thái, giảm nhẹ thiên tai mà rừng tự nhiên có thể mang lại. .Thực tế những trận lũ lụt nghiêm trọng xảy ra trên đất nước tôi trong những năm gần đây đã bộc lộ những lỗ hổng trong công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng.
Mặc dù từ năm 2005 đến nay, tỷ lệ che phủ rừng của nước ta tăng đều qua các năm nhưng thực tế diện tích trồng hầu hết là các loại cây công nghiệp sinh trưởng nhanh, có giá trị kinh tế cao như keo, bạch đàn, cao su. v.v nên mặc dù diện tích rừng nhân tạo tiếp tục tăng từ 2,3 triệu ha năm 2005 lên 4,1 triệu ha năm 2016 và 4,3 triệu ha năm 2019 nhưng diện tích vẫn tăng. Điều này rất tốt cho việc phòng chống thiên tai lũ lụt, sạt lở đất do rừng có chất lượng không cao.
Xem thêm: Suy thoái rừng là gì? Thực trang, nguyên nhân và giải pháp?
Việc tập trung tăng độ che phủ rừng mà không nâng cao chất lượng rừng có thể dẫn đến những hệ lụy khó lường như mất khả năng chống chịu thiên tai, lũ lụt của rừng; chất lượng rừng không được cải thiện, tính đa dạng hệ sinh thái suy giảm, tạo cơ hội cho các đối tượng xấu cơ hội, sử dụng rừng sai mục đích, biến rừng giàu thành rừng cằn cỗi
Mặc dù chưa có số liệu thống kê đầy đủ về hậu quả có thể xảy ra của việc suy giảm diện tích rừng đặc dụng và vành đai che chắn, nhưng Bộ NN-PTNT nhận định, một trong những nguyên nhân gây sạt lở khi trời mưa hoặc lũ lụt do phá rừng lấy hoa màu, luân canh, trồng rừng thay thế và các dự án phát triển kinh tế có sử dụng đất lâm nghiệp – Xã hội.
Cuối cùng, hai nguyên nhân làm giảm diện tích rừng tự nhiên là do chuyển đổi mục đích sử dụng rừng và khai thác quá mức. Theo thống kê của Tổng cục Lâm nghiệp, từ năm 2012 đến 2017, 11% diện tích rừng tự nhiên bị mất do khai thác trái phép, 89% còn lại là do chuyển đổi mục đích sử dụng. Hầu hết đây là các dự án phát triển kinh tế. Trong đó, nổi bật là hai khu vực xảy ra tình trạng này là Duyên hải miền Trung và Tây Nguyên.
Trên đây là tỷ lệ che phủ rừng và thực trạng tỷ lệ che phủ rừng ở nước ta. Bên cạnh những mặt đạt được vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục. Mong rằng qua bài viết này các bạn sẽ có những hiểu biết đa chiều hơn về hiện trạng rừng Việt Nam và độ che phủ của rừng.