Giám mục Francis Atterbury
?Sức mạnh của giáo dục nằm ở chỗ chúng ta có thể hình thành mẫu tính cách phù hợp cho thế hệ trẻ và hình thành những thói quen tốt sẽ có những hậu quả sâu rộng.
Giáo dục
Giáo dục là gì?
Giáo dục theo nghĩa rộng nhất là một hình thức học tập trong đó kiến thức, kỹ năng và thói quen của một nhóm người được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua giảng dạy, đào tạo hoặc nghiên cứu.
Học tập thường dưới sự giám sát của người khác, nhưng cũng có thể thông qua tự học.
Bạn đang xem: Giáo dục là gì?
Bất kỳ trải nghiệm nào ảnh hưởng đáng kể đến cách mọi người suy nghĩ, cảm nhận hoặc cư xử đều có thể được coi là mang tính giáo dục.
“Không có lực nào ảnh hưởng đến tôi sâu sắc hơn lực được tạo ra thông qua những suy nghĩ có ý thức của tôi”.
Anthony Robbins
? “Suy nghĩ là điều khó khăn nhất trên thế giới. Đó có lẽ là lý do tại sao mọi người hiếm khi đắm chìm hoàn toàn vào nó.”
Henri Pod
Giáo dục thường được chia thành giáo dục mầm non, giáo dục tiểu học, giáo dục trung học và giáo dục đại học.
Về mặt từ nguyên, gốc Latinh của từ “giáo dục” trong tiếng Anh là ēducātiō (“nuôi dưỡng, nuôi dưỡng”), bao gồm ēdūcō (“Tôi giáo dục, tôi đào tạo”), với từ đồng âm ēdūcō (“Tôi tiến lên, tôi rút ra ; tôi dậy”).
Trong tiếng Việt, “trà” có nghĩa là dạy dỗ, và “edu” có nghĩa là nuôi dưỡng (không dùng riêng); “giáo dục” có nghĩa là “dạy mọi kiến thức, đức hạnh và thao thao bất tuyệt”.
Ở Việt Nam, một định nghĩa khác về giáo dục là: Giáo dục là quá trình mà kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm của một người hoặc một nhóm người được truyền đạt một cách tự nhiên, chứ không phải áp đặt cho một người hoặc một nhóm người khác thông qua giảng dạy, đào tạo hoặc Nghiên cứu phát hiện, khuyến khích, hướng dẫn và hỗ trợ mỗi cá nhân phát huy tối đa điểm mạnh và sở thích của họ, cho phép họ được là chính mình, từ đó đóng góp năng lực tối đa cho xã hội đồng thời giải quyết quan điểm, sở thích và thế mạnh của họ.
Nhiều chính phủ công nhận quyền được giáo dục.
Trên toàn cầu, Điều 13 của Công ước Quốc tế của Liên hợp quốc về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa (1966) công nhận quyền được giáo dục của mọi người.
Mặc dù giáo dục là bắt buộc cho đến một độ tuổi nhất định ở hầu hết các quốc gia, nhưng việc đi học thường không bắt buộc; một số ít phụ huynh chọn cho con học tại nhà, học trực tuyến, v.v.
Học tập suốt đời
?Nhiều người vẫn nghĩ rằng chúng ta được giáo dục bằng cách ngồi trên ghế nhà trường hàng năm trời.
?”Chúng ta có thực sự được giáo dục trong các trường học và cao đẳng?”.
?Câu trả lời hầu hết là không.
Vậy ý nghĩa thực sự của giáo dục là gì?
Trí dục ảnh hưởng đến tình cảm, còn giáo dục giá trị ảnh hưởng đến lòng người.
Nếu giáo dục không dựa trên trái tim sẽ dẫn đến nhiều nguy hiểm.
Khi chúng ta muốn xây dựng nhân cách nơi công sở, gia đình và xã hội, chúng ta phải đạt được một nền văn hóa đạo đức và luân lý tối thiểu.
Nhiệm vụ quan trọng của giáo dục là bồi dưỡng cho con người những phẩm chất tốt đẹp như trung thực, vị tha, dũng cảm, kiên nhẫn, tinh thần trách nhiệm.
Có thể không cần phải học thêm về học thuật, nhưng nó rất cần một nền giáo dục đào sâu vào các giá trị nhân văn.
Bởi vì giáo dục đạo đức luôn là công cụ hữu hiệu giúp con người tiến bộ và thành công trong cuộc sống, không giống như những người có học thức uyên bác nhưng lại bị tha hóa về tâm hồn.
Giáo dục không đào sâu nhân phẩm
Ngày nay, một số trường đại học đang sản sinh ra những kẻ “dã man” có tay nghề cao nhưng thiếu phẩm giá vì họ không có hệ thống giá trị đạo đức cần thiết. –Steven Muller, Chủ tịch, Đại học Johns Hopkins
Giáo dục chân chính là giáo dục phát triển trí tuệ và trái tim.
Một tên trộm ít học có thể chỉ ăn cắp thứ gì đó từ một toa xe, nhưng nếu có học thức, anh ta thậm chí có thể cân nhắc ăn trộm cả một đoàn tàu. Đó là kiến thức, trí thông minh chứ không phải điểm số mà chúng ta cần thi đua trong trường học.
Kiến thức là kinh nghiệm thực tế và trí tuệ là khả năng áp dụng kiến thức đơn giản hóa vào cuộc sống.
? “Có một điều rất thú vị trong cuộc sống, đó là nếu bạn từ chối mọi thứ và chỉ chấp nhận điều tốt nhất, bạn sẽ luôn có điều tốt nhất.”
w. Somerset Maugham
Có người điểm cao, bằng giỏi nhưng trong đầu họ chẳng có bao nhiêu kiến thức.
Cho đến nay, nhiều người vẫn còn quan niệm sai lầm về giáo dục trí nhớ.
Nếu giáo dục không dựa trên những giá trị đạo đức thì sẽ tạo ra những kẻ lập dị trong xã hội.
✳️Tri thức chưa chắc đã là sức mạnh
Chúng ta thường nghe nói rằng tri thức là sức mạnh.
Không đúng.
Kiến thức là thông tin cần thiết và chỉ có tác dụng khi chúng ta đưa nó vào thực tế.
Sự khác biệt giữa một người không biết đọc và một người biết đọc nhưng không biết đọc là gì?
Như Ben Franklin đã nói: “Không có nhiều khác biệt!”.
Việc học rất giống với việc ăn uống.
Chúng ta ăn bao nhiêu không quan trọng, quan trọng là chúng ta tiêu hóa được bao nhiêu.
Kiến thức là sức mạnh tiềm ẩn; trí tuệ là sức mạnh thực sự. – shiv khera”
Giáo dục có nhiều hình thức, không chỉ thông qua điểm số và bằng cấp. Giáo dục là:
⭕Trau dồi sức mạnh cá nhân
⭕Rèn luyện tính tự giác
⭕Nghe
⭕Dễ học
Bộ não con người cũng giống như cơ bắp, nó lớn lên hay hao mòn tùy thuộc vào việc nó được rèn luyện nhiều hay ít.
Nếu bạn nghĩ rằng trả tiền cho giáo dục là quá đắt đỏ, hãy thử trở nên ngu ngốc. – Derek Bork”
Vị thần
?Mục đích giáo dục
Mục đích của giáo dục là gì?
?Khái niệm mục đích giáo dục:
?Nói đến giáo dục là nói đến hiện tại, nghĩ đến tương lai, triển vọng, triển vọng.
? “Người ta cho rằng cái đó quyết định tốt hay xấu. Nó quyết định cảm giác vui hay buồn, trạng thái giàu nghèo.”
_Edmund Spencer
?Giáo dục là nhịp cầu nối quá khứ và hiện tại, đặc biệt là hiện tại và tương lai.
?Vì vậy, tính định hướng của giáo dục là đặc trưng của nó, và giáo dục luôn phát triển phù hợp với sự phát triển bền vững chung của xã hội.
?Do đó, nó được coi là yếu tố then chốt cho sự phát triển bền vững.
?Vì vậy, mục đích giáo dục là phạm trù cơ bản của sư phạm, trước hết phản ánh kết quả mong đợi của giáo dục, đồng thời phản ánh trước kết quả mong đợi của hoạt động chung của giáo dục và học tập.
?Nói cách khác, mục đích giáo dục là hình mẫu nhân cách của người học, là sự quy định những đặc điểm cơ bản, là hệ thống định hướng phát triển, là nội lực con người của người học, nhằm đáp ứng nhu cầu của người học một cách có hiệu quả đáp ứng yêu cầu của xã hội. Sự phát triển kinh tế trong một giai đoạn lịch sử cụ thể.
? Từ đó, chúng ta có thể thấy rằng:
?Mục đích giáo dục luôn thay đổi cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội.
?Vì vậy, mục đích giáo dục mang tính lịch sử, trong xã hội có giai cấp mục đích giáo dục phản ánh tính tập trung giai cấp của giáo dục.
?Mục đích của giáo dục liên quan trực tiếp đến yếu tố con người và phát huy sức mạnh của con người.
?Đối với nước ta, sức mạnh này là sức mạnh của dân tộc Việt Nam.
?Sức mạnh ấy thể hiện ở sức mạnh kinh tế, sức mạnh chính trị, sức mạnh văn hóa của đất nước, đồng thời con người được rèn luyện qua sức mạnh này sẽ mạnh mẽ hơn, đầy đủ hơn.
?Vì vậy, vấn đề mục đích giáo dục là vấn đề cơ bản của chiến lược xây dựng con người và phát triển nguồn lực, là một bộ phận cấu thành trong hệ thống vấn đề then chốt của chiến lược kinh tế – xã hội quốc gia.
?Việc xác định đúng mục đích giáo dục có thể tạo ra sự khác biệt lớn, cụ thể là:
?Nó quyết định tính chất của các yếu tố khác trong toàn bộ quá trình giáo dục.
?Nó định hướng sự vận động của các yếu tố đó trong suốt quá trình giáo dục để đạt hiệu quả và chất lượng cao, không phải chạy sai mục đích mà tự điều chỉnh sự vận động của nó. .
?Là tiêu chuẩn để đánh giá sản phẩm của toàn bộ quá trình giáo dục.
?Vì vậy, nhận thức rõ ràng, đúng đắn, thấu đáo mục đích giáo dục là vấn đề cơ bản của lý luận giáo dục và là yêu cầu cấp thiết của giáo dục hiện nay.
?Khi xác định mục tiêu giáo dục cần:
?️phản ánh mẫu nhân cách thích ứng với yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội trong một giai đoạn lịch sử nhất định.
?️ Phản ánh thời đại và dân tộc trong mẫu nhân cách cần hình thành.
?️ kế thừa kinh nghiệm trước đây trong việc cấu trúc và thực hiện các mục tiêu giáo dục.
?️Xác định mục đích giáo dục khả thi, hiệu quả trên cơ sở điều kiện và sự phát triển giáo dục của đất nước.
Thế nào là một người “có học”?
?Thứ nhất, người có học phải là người biết ứng xử với các tình huống hàng ngày, biết suy nghĩ chín chắn khi có vấn đề phát sinh và ít khi bỏ lỡ thời cơ để hành động.
?Thứ hai, phải biết đối nhân xử thế, biết chấp nhận những điều mà người khác khó chịu, xúc phạm, biết phân biệt đúng sai để hòa thuận với đồng nghiệp.
?Hơn nữa, họ phải biết làm chủ hạnh phúc của mình, không bị sóng gió cuộc đời tác động quá mức, để thích nghi và xứng đáng với bản chất con người.
?Điều quan trọng nhất là họ là những người không bị thành công của bản thân làm cho tha hóa, không từ bỏ con người thật của mình mà luôn giữ phong thái của người thông minh và lý trí.
?Những điều tốt đẹp may mắn trong cuộc sống đối với họ cũng quý giá như thành quả của nhân phẩm và trí tuệ bẩm sinh của chính họ.
?Tóm lại, người có học là người biết lựa chọn sáng suốt, dũng cảm trong mọi tình huống, biết phân biệt khôn và dại, thiện và ác, đức và phàm.
Mục tiêu của giáo dục là gì?
?Mục tiêu giáo dục là hệ thống chuẩn mực các mẫu nhân cách cần được hình thành trên những đối tượng giáo dục nhất định.
?Chính hệ thống yêu cầu xã hội cụ thể của từng thời đại, từng thời kỳ quyết định đặc điểm nhân cách của một lớp đối tượng giáo dục.
?Vì vậy, mục tiêu giáo dục phụ thuộc vào từng thời kỳ cụ thể của quá trình phát triển xã hội và từng giai đoạn của quá trình giáo dục con người.
?Với các giai đoạn phát triển khác nhau của xã hội, cách xác lập mục tiêu giáo dục cũng thay đổi.
?Trong một thời gian dài cho đến những năm 1940, việc giảng dạy dựa trên việc tiếp thu kiến thức.
?Có thể nói khả năng và mức độ tiếp thu kiến thức là mục tiêu dạy học trong giai đoạn này.
Sau những kết quả nghiên cứu đầy thuyết phục của nhóm Bloom, dạy học theo mục tiêu thực sự bắt đầu xuất hiện ở Mỹ từ những năm 1950 và nhanh chóng được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
?Các phương pháp để đạt được mục tiêu giáo dục của thế giới
?Hiện nay, có 3 cách để đạt được mục tiêu giáo dục trên thế giới
?Phương pháp truyền thống:
?Đây là mục tiêu giáo dục mà các nước thuộc Liên Xô cũ theo đuổi.
?Theo đánh giá của các chuyên gia giáo dục, cách làm này đã bị coi là lỗi thời, lạc hậu, bóp nghẹt tiềm năng phong phú của người học.
?Tuy nhiên, đây vẫn là mục tiêu của giáo dục Việt Nam hiện nay.
?Cách tiếp cận nhân văn:
?Loại mục tiêu này được cá nhân người học quan tâm.
?Phương pháp nhắm mục tiêu này trở nên rất phổ biến ở Hoa Kỳ và các nước phương Tây trong những năm 1970 và 1980.
?Mục đích của việc này là tạo điều kiện cho người học quá rảnh rỗi và “nuông chiều”.
?Phương pháp tiếp cận nhân văn truyền thống:
?Đây là mục tiêu giáo dục hiện đại kết hợp giữa truyền thống và nhân văn.
?Mục tiêu này đang được định hướng bởi các hệ thống giáo dục tiên tiến trên thế giới.
?Nó hiện đang rất phổ biến ở các nước Châu Âu và Châu Mỹ.
?Xác định mục tiêu giáo dục
?Mục đích giáo dục là mong muốn, kết quả mong đợi của một quá trình giáo dục nhất định.
?Những mong muốn này mang tính chất lý tưởng, là mục tiêu mà con người theo đuổi và phấn đấu đạt được.
?Nó có chức năng định hướng, điều khiển hoạt động giáo dục trong một giai đoạn lịch sử nhất định.
?Mục đích và mục tiêu có thể được phân biệt bằng một số dấu hiệu:
?Trước đây, ở Việt Nam người ta thường nói: Đào tạo để phát triển nhân tài, hay: Đào tạo để trồng người có đủ tài và đức, hoặc: Mục tiêu giáo dục bao gồm cả đức, trí và thể. Mỹ, Lao động…
?Và đạt được những mục tiêu này: học lễ trước học văn… Nhưng nếu hỏi các nhà quản lý giáo dục và các thầy cô giáo thì hiểu và giải thích như thế nào về những mục tiêu trên, nhất là khi hỏi về trí lực và tư duy trí tuệ học sinh là gì? cần đạt được thành tích, và những nghi lễ nào đang được áp dụng hiện nay? Văn bản bây giờ là gì? …Chắc chắn sẽ có nhiều cách hiểu và cách hiểu khác nhau.
?Vì vậy, trước hết phải làm rõ mục tiêu giáo dục, để cán bộ quản lý giáo dục các cấp, mọi giáo viên và toàn xã hội nhận thức đúng về mục tiêu giáo dục, hiểu đúng về giáo dục các cấp học. Giáo dục và xã hội nói chung nhằm đạt được mục tiêu này.
?Để làm rõ những lập luận trên, chúng ta cần nghiên cứu làm rõ hai khái niệm quan trọng về chỉ tiêu chất lượng giáo dục và mục tiêu giáo dục chỉ tiêu chất lượng nguồn nhân lực:
?(Phỏng theo Chỉ số chất lượng giáo dục trên trang web chỉ số clgd – Báo cáo của Viện Chiến lược và Kế hoạch Giáo dục, 10/11/2003).
?Đây là đánh giá của một tổ chức quốc tế, vậy các chỉ số đánh giá chất lượng trên là gì?
?Vì sao Việt Nam và Indonesia có chỉ số thấp nhất ở cả 3 tiêu chí về chỉ số tổng hợp chất lượng giáo dục và nguồn nhân lực trong số 12 quốc gia châu Á?
?Nhiều nhà khoa học trên thế giới cho rằng kỹ năng mềm chiếm 75% còn kỹ năng cứng (kiến thức) chỉ chiếm 25% trong thành công trong cuộc sống. Ở Việt Nam thì ngược lại, chúng ta chủ yếu truyền thụ kiến thức mà ít chú trọng đào tạo kỹ năng.
?Mục tiêu giáo dục hôm nay:
?Tóm lại, người có học là người biết lựa chọn sáng suốt, dũng cảm trong mọi tình huống, biết phân biệt khôn và ngu, thiện và ác, đức và phàm. /h4>
?Giáo dục với tư cách là một khoa học không thể tách rời khỏi truyền thống giáo dục hiện có.
?Trong xã hội, người lớn giáo dục lớp trẻ để tiếp thu kiến thức và kỹ năng cần truyền lại cho thế hệ sau.
?Sự phát triển văn hóa và sự tiến hóa của loài người đều phụ thuộc vào phương thức truyền đạt kiến thức này.
?Trong các xã hội chưa có chữ viết, giáo dục được thực hiện bằng lời nói và bắt chước.
?Những câu chuyện này được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
?Ngôn ngữ nói sau đó phát triển thành các chữ cái và ký hiệu.
?Độ sâu và bề rộng của kiến thức có thể được bảo tồn và phổ biến được tăng lên rất nhiều.
?Giáo dục chính quy và trường học cuối cùng sẽ diễn ra khi các nền văn hóa bắt đầu mở rộng kiến thức ngoài các kỹ năng cơ bản như giao tiếp, đổi chác, kiếm tiền, thực hành tôn giáo, v.v.
?Ở phương Tây, triết học Hy Lạp cổ đại ra đời từ thế kỷ V TCN. Plato, triết gia Hy Lạp cổ đại, nhà toán học và tác giả của các cuộc đối thoại triết học, đã thành lập Học viện ở Athens. Đây là tổ chức giáo dục đại học đầu tiên ở phương Tây.
?Bị ảnh hưởng bởi người thầy của mình, nhà triết học Socrates, trước khi ông bị xử tử một cách bất công, Plato và học trò của ông, nhà khoa học chính trị Aristotle, đã giúp đặt nền móng cho khoa học và triết học phương Tây.
?Thành phố Alexandria của Ai Cập được thành lập vào năm 330 trước Công nguyên, tiếp bước Athens là cái nôi trí tuệ của thế giới phương Tây. Alexandria là quê hương của nhà toán học Euclid và nhà giải phẫu học Herophilus; Thư viện Alexandria vĩ đại được xây dựng ở đây; và là nơi Kinh thánh tiếng Do Thái được dịch sang tiếng Hy Lạp.
?Sau đó, nền văn minh Hy Lạp đã bị hấp thụ vào Đế chế La Mã.
?Dưới thời Đế chế Byzantine ở Constantinople ở phía đông, nền văn minh phương Tây đã đứng vững sau sự sụp đổ của La Mã vào năm 476, khi Đế chế La Mã và Cơ đốc giáo mới của nó tiếp tục ở dạng Hy Lạp hóa ngày càng nhiều. Sụp đổ.
Ở phương Đông, Khổng Tử (551-479 TCN) là triết gia Trung Quốc cổ đại có ảnh hưởng nhất. Quan điểm giáo dục của Khổng Tử tiếp tục ảnh hưởng đến xã hội Trung Quốc và các nước láng giềng như Triều Tiên, Việt Nam và Nhật Bản.
Khổng Tử triệu tập các đệ tử và dày công tìm kiếm vị quân vương có thể thực hiện triết lý trị quốc của mình nhưng không tìm được.
? “Tổ tiên của mọi hành động là suy nghĩ.”
_Ralph Waldo Emerson
Tuy nhiên, ảnh hưởng của “Luận ngữ của Khổng Tử” do các đệ tử của ông viết đối với nền giáo dục phương Đông vẫn tiếp tục cho đến thời hiện đại.
Ở Ấn Độ cổ đại, nhiều học viện Phật giáo cao cấp đã được thành lập và phát triển thịnh vượng, chẳng hạn như Taxshashila, Nalanda, Bikramasila và Puspagiri.
Ở Tây Âu, sau sự sụp đổ của Rome, Giáo hội Công giáo đã trở thành một lực lượng thống nhất. Ban đầu là người giám hộ duy nhất của việc học tập ở Tây Âu, Giáo hội đã thành lập các trường học như những trung tâm giáo dục đại học trong thời kỳ tiền trung cổ.
Một số trong số đó sau này đã phát triển thành các trường đại học thời trung cổ, tiền thân của các trường đại học châu Âu hiện đại.
Các trường đại học ở các quốc gia Cơ đốc giáo phương Tây phát triển mạnh khắp Tây Âu, khuyến khích tự do nghiên cứu và sản sinh ra nhiều nhà tự nhiên học và học giả lỗi lạc.
Đại học Bologna được cho là trường đại học hoạt động liên tục lâu đời nhất.
Ở những nơi khác trong thời Trung Cổ, khoa học và toán học Hồi giáo đã phát triển mạnh mẽ dưới chế độ Khalifa được thiết lập trên khắp Trung Đông, trải dài từ Bán đảo Iberia ở phía tây đến Sông Indus ở phía đông. Sau đó đến Vương triều Muravid và Đế chế Mali, rồi đến phương Nam.
Thời kỳ Phục hưng ở Châu Âu đã mở ra một kỷ nguyên mới về theo đuổi trí tuệ và nghiên cứu khoa học, cũng như đánh giá cao các giá trị của nền văn minh Hy Lạp và La Mã.
Khoảng năm 1450, Johannes Gutenberg đã phát minh ra máy in, giúp truyền bá văn học nhanh hơn.
Trong thời đại của các đế quốc châu Âu, các khái niệm giáo dục của châu Âu trong các lĩnh vực triết học, tôn giáo, nghệ thuật và khoa học đã lan rộng khắp thế giới.
Các nhà truyền giáo và học giả cũng mang về những ý tưởng mới từ các nền văn minh khác – ví dụ, các nhà truyền giáo Dòng Tên ở Trung Quốc đã đóng một vai trò quan trọng trong việc trao đổi trí tuệ, khoa học và văn hóa giữa Trung Quốc và phương Tây, dịch các nền tảng của Euclid, v.v. phục vụ như các học giả Trung Quốc, dịch Nho giáo cho độc giả phương Tây.
Vào Thời đại Khai sáng, một quan điểm thế tục hơn về giáo dục đã xuất hiện ở phương Tây.
Giáo dục hiện nay là bắt buộc đối với tất cả trẻ em ở độ tuổi nhất định ở hầu hết các quốc gia.
Do giáo dục được nâng cao và gia tăng dân số, UNESCO ước tính rằng trong vòng 30 năm tới, số người được giáo dục chính quy sẽ nhiều hơn số người được đi học trong toàn bộ lịch sử của loài.
?Giáo dục chính quy
?Các hoạt động giáo dục chính quy liên quan đến việc dạy và học trong môi trường nhà trường theo một chương trình cụ thể.
?Chương trình giảng dạy được thiết kế theo mục đích đã xác định trước của nhà trường trong hệ thống giáo dục.
?Giáo dục mầm non
✔️ Trường mầm non cung cấp chương trình giáo dục cho đến khi trẻ em từ 4 đến 8 tuổi bắt đầu học tiểu học.
✔️Việc giáo dục giai đoạn này rất quan trọng trong những năm tháng hình thành nhân cách của trẻ.
✳️Giáo dục cơ bản
✴️ Giáo dục tiểu học thường bao gồm 6 đến 8 năm học, bắt đầu từ 5 hoặc 6 tuổi, mặc dù thời lượng chính xác khác nhau tùy theo quốc gia. Trên toàn cầu, khoảng 89% trẻ em trong độ tuổi đi học đang học tiểu học và tỷ lệ này đang tăng lên.
✴️ Thông qua sáng kiến Giáo dục cho mọi người do UNESCO dẫn đầu, hầu hết các quốc gia đã cam kết phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2015 và giáo dục tiểu học là bắt buộc ở nhiều quốc gia.
❇️Giáo dục trung học
➕ Trong hầu hết các hệ thống giáo dục hiện nay trên thế giới, giáo dục trung học bao gồm giáo dục chính quy cho thanh niên.
➕ Đây là giai đoạn chuyển tiếp giữa giáo dục tiểu học, thường là bắt buộc đối với trẻ vị thành niên, và giáo dục sau trung học trở lên tùy chọn đối với người lớn. .
➕ Tùy thuộc vào hệ thống giáo dục, các trường học trong giai đoạn này, hoặc một phần của chúng, có thể được gọi là trường trung học hoặc dạy nghề.
➕Ranh giới chính xác của giáo dục tiểu học và trung học cũng khác nhau tùy theo quốc gia và khu vực, thường là vào khoảng lớp 7 hoặc lớp 10.
?Giáo dục đại học
Giáo dục đại học, còn được gọi là giáo dục đại học hoặc giáo dục sau trung học (mặc dù các thuật ngữ này không nhất thiết có nghĩa giống nhau ở tất cả các quốc gia), là một giai đoạn giáo dục không bắt buộc tiếp theo. giáo dục trung học.
?Giáo dục đại học thường bao gồm các cấp cao đẳng, đại học và sau đại học, cũng như giáo dục và đào tạo nghề.
?Các trường đại học và cao đẳng đại học là cơ sở cung cấp giáo dục đại học chính.
?Sau khi hoàn thành chương trình giáo dục đại học, sinh viên thường nhận được bằng cấp hoặc chứng chỉ.
?Giáo dục nghề nghiệp
?Giáo dục nghề nghiệp là một hình thức giáo dục tập trung vào đào tạo thực tế và trực tiếp cho một nghề nghiệp.
?Giáo dục nghề nghiệp có thể dưới hình thức học nghề hoặc thực tập sinh, và có thể bao gồm các cơ sở dạy các khóa học về mộc, nông nghiệp, kỹ thuật, y học, kiến trúc và nghệ thuật.
?Giáo dục đặc biệt
Trước đây, người khuyết tật thường không thể đến trường.
Trẻ em khuyết tật thường được các bác sĩ hoặc gia sư giáo dục.
Những bác sĩ đầu tiên này (những người như itard, seguin, howe, gallaudet) đã đặt nền móng cho giáo dục đặc biệt ngày nay.
Họ tập trung vào huấn luyện cá nhân và kỹ năng sống.
Giáo dục đặc biệt, trước đây chỉ dành cho người khuyết tật nặng và trẻ nhỏ, nay mở ra cho bất kỳ ai cảm thấy khó khăn trong việc học.
?Giáo dục mở và giáo dục trực tuyến
?Giáo dục mở là một thuật ngữ chung đề cập đến thực tiễn của các cơ sở giáo dục hoặc các sáng kiến giáo dục nhằm thúc đẩy tiếp cận các chương trình giáo dục và đào tạo mà trước đây chỉ có sẵn cho nhiều người thông qua hệ thống giáo dục chính quy.
?Tính từ “mở” nói đến việc dỡ bỏ những rào cản ngăn cản một số người có cơ hội tham gia hoạt động học tập trong các cơ sở giáo dục. ? Một khía cạnh của giáo dục mở là phát triển và sử dụng các tài nguyên giáo dục mở.
?E-learning là việc sử dụng công nghệ giáo dục dựa trên các phương tiện điện tử trong dạy và học.
?Bằng cách sử dụng công nghệ hiện đại trên máy tính, người dùng có thể dễ dàng theo dõi liệu trình.
?Nhiều tổ chức giáo dục đại học lớn đang phát triển việc dạy và học trực tuyến, chẳng hạn như Harvard hay Stanford, Đại học Renmin,…
Lý thuyết giáo dục
?Sứ mệnh của trường
Thời kỳ đầu đi học, trọng tâm thường xoay quanh việc phát triển các kỹ năng đọc và viết cơ bản cũng như kỹ năng giao tiếp để tạo điều kiện thuận lợi cho việc học các kỹ năng và môn học phức tạp hơn.
Sau khi đạt được những năng lực cơ bản này, giáo dục thường tập trung vào việc giúp các cá nhân có được kiến thức và kỹ năng cần thiết để nâng cao khả năng tạo ra giá trị và làm việc của họ. tự bảo vệ mình.
Sự thỏa mãn trí tò mò cá nhân (chính là giáo dục) và mong muốn phát triển cá nhân (nâng cao trình độ mà không có lý do cụ thể liên quan đến nghề nghiệp) cũng là những lý do tại sao sự nổi tiếng thúc đẩy mọi người theo đuổi giáo dục và đi học.
Giáo dục thường được coi là phương tiện giúp tất cả mọi người vượt qua nghịch cảnh, đạt được công lý cao hơn cũng như đạt được sự giàu có và địa vị xã hội.
Học sinh cũng có thể được thúc đẩy bởi sự quan tâm đến một chủ đề hoặc kỹ năng cụ thể mà các em đang cố gắng học.
Mô hình giáo dục trách nhiệm của người học được thúc đẩy bởi sự hứng thú của người học đối với môn học.
Giáo dục cũng thường được coi là nơi trẻ em có thể phát triển các nhu cầu và tiềm năng độc đáo của mình, với mục tiêu giúp mỗi cá nhân phát huy hết tiềm năng của mình.
?Tâm lý giáo dục
?Tâm lý giáo dục là nghiên cứu về cách mọi người học trong môi trường giáo dục, hiệu quả của các biện pháp can thiệp giáo dục, tâm lý giảng dạy và tâm lý xã hội của trường học dành cho trẻ em. là một tổ chức.
?Mặc dù thuật ngữ “tâm lý học giáo dục” và “tâm lý học đường” thường được sử dụng đồng nghĩa, nhưng các nhà nghiên cứu và lý thuyết gia thường được gọi là nhà tâm lý học giáo dục và nhà tâm lý học là nhà khoa học tâm lý học giáo dục. Các nhà tâm lý học làm việc trong trường học hoặc các cơ sở liên quan đến trường học được gọi là nhà tâm lý học trường học.
?Tâm lý giáo dục quan tâm đến quá trình học tập của công chúng và dân số, chẳng hạn như trẻ em có năng khiếu và khuyết tật.
?Tâm lý giáo dục có thể được hiểu một phần thông qua mối quan hệ của nó với các ngành khác.
?Chủ yếu là tâm lý học, liên quan đến y học và sinh học.
?Ngược lại, tâm lý giáo dục bộc lộ nhiều lĩnh vực cụ thể trong lĩnh vực nghiên cứu giáo dục, bao gồm thiết kế giảng dạy, công nghệ giáo dục, phát triển chương trình giảng dạy, giáo dục đặc biệt và quản lý liệu pháp lớp học.
?Tâm lý giáo dục vừa kế thừa, vừa đóng góp của khoa học nhận thức và khoa học học tập.
?Trong các trường đại học, các khoa tâm lý giáo dục thường nằm trong các khoa giáo dục hoặc trường đại học, điều này có thể giải thích tại sao tâm lý giáo dục không được đề cập nhiều trong sách giáo khoa cấp nhập môn. tâm lý.
Cách học
☘️ Trong hai thập kỷ qua, người ta đã tập trung rất nhiều vào các phương pháp và phong cách học tập.
☘️Các phương pháp học tập phổ biến nhất là: trực quan (thị giác; học tập dựa trên quan sát và nhìn thấy những gì đang được học), thính giác (thính giác; học tập dựa trên thính giác. lắng nghe thông tin và hướng dẫn), và thông qua chuyển động (động học ; học dựa trên chuyển động, chẳng hạn như khi tham gia vào các hoạt động và thực hành trực tiếp) – viết tắt là vak.
☘️Các phong cách học tập khác bao gồm học nhạc, tương tác giữa các cá nhân, ngôn ngữ, tư duy logic, v.v.
☘️ dunn và dunn tập trung vào việc xác định các tác nhân kích thích có thể ảnh hưởng đến việc học và điều chỉnh môi trường học đường, đồng thời, joseph renzulli đề xuất sử dụng các chiến lược giảng dạy khác cùng nhau.
☘️ Howard Gardner đã đề cập đến nhiều phương thức học tập trong lý thuyết “Đa trí thông minh” của mình.
☘️ Phương pháp myers-briggs (chỉ báo loại myers-briggs) và keirsey (máy phân loại tính khí keirsey) để kiểm tra tính cách, dựa trên công trình của Carl Jung, tập trung vào việc tìm hiểu cách tính cách của mọi người ảnh hưởng đến tương tác của họ với người khác và cách các cá nhân học cách phản ứng với nhau trong môi trường.
☘️ Công trình của david kolb và anthony gregorc tuân theo cách tiếp cận tương tự nhưng đơn giản hóa.
☘️ Một số lý thuyết cho rằng tất cả mọi người học hiệu quả bằng cách sử dụng nhiều cách học khác nhau, trong khi những lý thuyết khác cho rằng các cá nhân có thể phù hợp với những cách học nhất định hiệu quả hơn thông qua phương pháp trực quan hoặc nghiên cứu trải nghiệm vận động.
☘️Một trong những hệ quả của nhóm lý thuyết thứ hai là để dạy học hiệu quả, cần có nhiều phương pháp dạy học bao hàm cả ba phương pháp học tập nêu trên để mọi học sinh noi theo. Phương pháp tôi tìm thấy hoạt động tốt nhất.
☘️ guy claxton đặt câu hỏi về mức độ hiệu quả của các phong cách học tập như vak, đặc biệt là khi họ có xu hướng phân loại học sinh và dường như hạn chế việc học.
☘️ Nghiên cứu gần đây cho thấy rằng “không có cơ sở bằng chứng chắc chắn nào chứng minh việc tích hợp đánh giá phong cách vào giáo dục phổ thông.”
Triết lý giáo dục
?Với tư cách là một lĩnh vực học thuật, triết học giáo dục là “triết lý giáo dục và những vấn đề của nó; đối tượng triết học giáo dục là giáo dục, phương pháp giáo dục là phương pháp triết học.”
?”Triết lý giáo dục có thể là triết lý về quá trình giáo dục hoặc triết lý về lĩnh vực giáo dục.
?Nghĩa là, nó có thể là một phần của giáo dục về mục tiêu, hình thức, phương pháp hoặc kết quả của quá trình giáo dục hoặc được giáo dục; hoặc nó có thể là một dạng siêu kỷ luật. “
?Triết học giáo dục do đó là một phần của lĩnh vực giáo dục cũng như lĩnh vực triết học ứng dụng, bao gồm siêu hình học, nhận thức luận, tiên đề học và các phương pháp tiếp cận triết học đối với các vấn đề trong các chủ đề như sư phạm, giáo dục, v.v. chính sách, chương trình giảng dạy và quy trình học tập, v.v.
?Ví dụ, triết học giáo dục có thể xem xét bản chất của giáo dục và giáo dục, các giá trị và chuẩn mực được thể hiện thông qua giáo dục và giáo dục, những hạn chế và tính hợp pháp của giáo dục với tư cách là một ngành học, và các bài tập về mối quan hệ giữa lý thuyết giáo dục và giáo dục .
?Khóa học
?Trong giáo dục chính quy, chương trình giảng dạy là tập hợp các bài học và nội dung trong một trường học.
?Theo khái niệm, từ chương trình giảng dạy tiếng Anh bắt nguồn từ tiếng Latinh “đường chạy” và đề cập đến các hoạt động và trải nghiệm của một đứa trẻ phát triển thành người lớn.
?Một khóa học giống như một đơn thuốc, dựa trên một giáo trình mô tả chung, chỉ nêu rõ các chủ đề cần nghiên cứu và đạt được điểm hoặc điểm cụ thể ở mức độ nào.
?Mỗi môn học là một nhánh của kiến thức được giảng dạy chính thức.
?Mỗi ngành thường có nhiều phân ngành, sự phân biệt giữa các ngành thường tùy tiện và không rõ ràng.
?Ví dụ về các lĩnh vực học thuật bao gồm khoa học tự nhiên, toán học, khoa học máy tính, khoa học xã hội, nhân văn, khoa học ứng dụng…
?Hoạt động dạy học
?Dạy là thúc đẩy người khác học.
?Những người dạy ở trường trung học cơ sở và tiểu học thường được gọi là giáo viên. Họ chỉ đạo việc giáo dục học sinh và có thể dạy đọc, viết, toán, khoa học và lịch sử, cùng nhiều môn học khác.
?Tùy thuộc vào loại hình tổ chức, những người giảng dạy tại các cơ sở sau trung học có thể được gọi là giáo viên, giảng viên hoặc giáo sư; họ chủ yếu chỉ giảng dạy trong lĩnh vực chuyên môn của mình.
?Nghiên cứu tại Mỹ cho thấy chất lượng giáo viên là yếu tố quan trọng nhất và duy nhất ảnh hưởng đến kết quả học tập của học sinh.
?Chất lượng giảng dạy thường được đánh giá bằng cách sử dụng đánh giá của sinh viên đối với giảng viên, nhưng những đánh giá này đã bị chỉ trích là phản tác dụng và không chính xác do định kiến của sinh viên.
?Kinh tế giáo dục
?Tỷ lệ giáo dục cao được coi là điều cần thiết để một quốc gia đạt được mức tăng trưởng kinh tế cao.
?Phân tích thực nghiệm có xu hướng ủng hộ dự đoán lý thuyết rằng các nước nghèo có thể tăng trưởng nhanh hơn các nước giàu bởi vì các nước nghèo có thể áp dụng các công nghệ hàng đầu mà các nước giàu đã thử và kiểm tra.
?Tuy nhiên, chuyển giao công nghệ đòi hỏi các nhà quản lý và kỹ sư có đầy đủ thông tin, những người có thể vận hành máy móc mới hoặc các phương thức sản xuất học được từ các nước đi đầu.
?Khả năng học hỏi từ những người đi trước của một quốc gia do đó phụ thuộc vào nguồn nhân lực mà quốc gia đó sở hữu.
?Nghiên cứu gần đây về các yếu tố quyết định sự phát triển kinh tế cho thấy tầm quan trọng của các thể chế kinh tế cơ bản và vai trò của các kỹ năng nhận thức.
Chủ đề giáo dục
Đăng bởi: thpt sóc trăng
Danh mục: Giáo dục