Từ thời cổ đại, luật pháp quốc tế đã công nhận quyền quốc hữu hóa tài sản của các quốc gia. Tuy nhiên, cho đến gần đây, trước sức ép của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, với việc một số nước ở Nam Mỹ tuyên bố xây dựng con đường xã hội chủ nghĩa, chúng ta mới nghe đến từ “quốc hữu hóa” nhiều hơn. Hiện nay, trên thế giới chưa có luật nào quy định cụ thể về quốc hữu hóa mà tùy từng thời điểm, tùy vào tình hình mỗi nước mà các nước sẽ ban hành luật quốc hữu hóa tài sản tư nhân trong những lĩnh vực cụ thể.
Tư vấn pháp luật trực tuyến miễn phí: 1900.6568
1. Khái quát hóa quốc hữu hóa:
Quốc hữu hóa được hiểu là việc nhà nước tước bỏ quyền sở hữu tài sản của cá nhân (công cụ và phương tiện sản xuất, đất đai, hầm mỏ, nhà máy, ngân hàng, phương tiện vận tải…) hoặc chuyển giao tài sản đó bởi các tổ chức tước quyền sở hữu của nhà nước. Do đó, quốc hữu hóa là việc chuyển tài sản (động sản và bất động sản) từ sở hữu tư nhân sang sở hữu nhà nước. Đây là quyết định đơn phương của quyền lực nhà nước đối với tài sản. Quốc hữu hóa có thể đi kèm với bồi thường tài chính cho khu vực tư nhân.
Chúng ta có thể hiểu một cách đơn giản quốc hữu hóa là việc chuyển công cụ, tư liệu sản xuất, đất đai, hầm mỏ, nhà máy, ngân hàng, phương tiện vận tải,… thuộc sở hữu tư nhân sang sở hữu nhà nước. Nhà nước không phụ thuộc vào ý chí của giới chủ để đưa ra các biện pháp cải cách kinh tế – xã hội.
Quốc hữu hóa là một trong những biện pháp cải cách kinh tế và xã hội, không phải là một biện pháp trừng phạt đơn lẻ và có nhiều mục tiêu.
Quốc hữu hóa là việc chuyển quyền sở hữu tài sản của một hoặc nhiều cá nhân hoặc của một hoặc nhiều tổ chức thành tài sản công (tài sản thuộc sở hữu nhà nước). Cá nhân, tổ chức có tài sản bị quốc hữu hóa có thể là công dân, pháp nhân của nước quốc hữu hóa tài sản đó hoặc công dân, pháp nhân của nước khác.
Luật pháp quốc tế công nhận quốc hữu hóa là một biện pháp bảo vệ chủ quyền chính đáng và hợp lý, miễn là bồi thường cho các chủ sở hữu cũ là công bằng và nhanh chóng. Nếu quốc gia thực hiện quốc hữu hóa không bồi thường hoặc việc bồi thường không đáp ứng các điều kiện trên thì hành vi quốc hữu hóa được coi là tịch thu hoặc sung công.
Do đó, quốc hữu hóa là hiện thân của quyền lực nhà nước và quốc hữu hóa dựa trên ý chí độc lập của nhà nước. Sự khác biệt giữa chuyển quyền sở hữu theo pháp luật nhà nước và chuyển quyền sở hữu tài sản trong dân sự là việc chuyển quyền sở hữu theo pháp luật nhà nước là bắt buộc, không cần sự đồng ý và đó là sự thỏa thuận giữa các bên. chủ thể của pháp luật sở hữu nhà nước. Phạm vi tài sản quốc hữu hóa thường được quy định trong luật quốc hữu hóa. Tất cả tài sản có thể bị áp dụng luật quốc hữu hóa, bất kể tài sản đó thuộc về ai, công dân và pháp nhân của nước sở tại hay người nước ngoài.
2. Lý do quốc hữu hóa:
Thực tiễn cho thấy, có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng quốc hữu hóa còn tồn đọng, chủ yếu như sau:
– Hoàn cảnh lịch sử: Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, ở Áo, tất cả tài sản công và tư của Đức từ ngành công nghiệp nguyên liệu và nhiên liệu đều trở thành tài sản công của Áo.
Xem thêm: Đào tạo pháp lý ở Hoa Kỳ so với Việt Nam và kinh nghiệm đào tạo pháp lý của họ ở Việt Nam
– Khi một số tập đoàn, tổng công ty lớn ở các nước phát triển phá sản. Nếu các doanh nghiệp đó đổ vỡ thì tác động đến nền kinh tế quốc dân (đặc biệt là các ngân hàng) là rất lớn, vì vậy quốc gia có thể quốc hữu hóa để cứu các doanh nghiệp đó và tránh những hậu quả khó lường trong tương lai.
– Quốc hữu hóa giúp nhà nước ngăn chặn độc quyền tư nhân.
– Đối với các nước đang phát triển giàu tài nguyên, chính phủ cần quốc hữu hóa một số ngành quan trọng, có ý nghĩa lớn đối với nền kinh tế quốc dân, để tránh tình trạng lệ thuộc kinh tế do đầu tư khai thác tài nguyên của các nước giàu.
– Quốc hữu hóa các ngành quan trọng của nền kinh tế như ngân hàng, khai khoáng, công nghiệp gang thép, hệ thống giao thông đường sắt, v.v. Đằng sau những quyết định này là ý tưởng rằng các quốc gia phải sở hữu những công ty này để điều hành nền kinh tế của họ một cách hiệu quả. Hoặc cố tình bóp chết quyền lực chính trị cá nhân đạt được thông qua quyền lực kinh tế. Quốc hữu hóa cũng có thể xảy ra do lo ngại các ngành công nghiệp quan trọng sẽ rơi vào tay nước ngoài.
-Ngoài ra, quốc hữu hóa đôi khi là sự trả thù chính trị khi có liên quan đến quan hệ giữa các quốc gia. Trong trường hợp này, quốc gia nhận vốn đầu tư không tốt với quốc gia của nhà đầu tư.
Và dù vì lý do gì, khi quốc hữu hóa, chúng ta thường phải chấp nhận thua lỗ vì doanh nghiệp nhà nước thường hoạt động không hiệu quả bằng doanh nghiệp tư nhân. Một vấn đề quan trọng khác là việc đền bù cho những người chủ cũ như thế nào cũng là một vấn đề quan trọng cần được làm rõ.
3. Tác động của Đạo luật Quốc hữu hóa:
Hầu hết các quốc gia đều công nhận rằng tác động của luật quốc hữu hóa là ngoài lãnh thổ: vượt ra ngoài biên giới của quốc gia: vượt ra ngoài lãnh thổ.
Luật quốc hữu hóa do một quốc gia ban hành không chỉ áp dụng cho tài sản được quốc hữu hóa trong lãnh thổ của quốc gia đó mà còn áp dụng cho tài sản ở lãnh thổ nước ngoài.
p>
Xem thêm: Quốc hữu hóa đất đai là gì? Quá trình quốc hữu hóa ruộng đất từ năm 1945
Trên thực tế, nước ngoài chỉ trả lại tài sản chịu sự điều chỉnh của luật quốc hữu hóa nếu tài sản đó vẫn còn ở trên lãnh thổ bị quốc hữu hóa khi luật quốc hữu hóa có hiệu lực. Vì một lý do nào đó, tài sản đó bị mang ra nước ngoài và nhà nước sẽ trả lại.
4. Vấn đề quốc hữu hóa ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay:
Vấn đề quốc hữu hóa lần đầu tiên được nhà nước quy định rõ tại Điều 23 và Điều 25 của Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị quyết số 51/2001/qh10 ngày 25/12/2001) và được thông qua vào năm 2013 Hiến pháp Kế thừa và phát triển. Luật đặc khu cũng có quy định cụ thể về quốc hữu hóa.
Chúng ta có thể thấy vấn đề quốc hữu hóa trong bối cảnh Việt Nam hiện nay không áp dụng và nhà nước chỉ điều chỉnh vấn đề trưng thu và sung công. Vì vậy, trên cơ sở tôn trọng quyền tài sản hợp pháp của các cá nhân, tổ chức, nước ta mới bảo vệ được quyền và lợi ích của người dân, giữ vững ổn định kinh tế và hệ thống chính trị.
Kết quả của quốc hữu hóa trong lĩnh vực kinh tế luôn có hai mặt: mang lại lợi ích kinh tế cho đất nước, nhưng đồng thời cũng làm hạn chế “lòng tin” của các cá nhân, tổ chức khi đầu tư. Kinh doanh ở Việt Nam là do quyền sở hữu hợp pháp đối với tài sản của mình có thể bị xâm phạm, có quy định sung công, khi nhà nước sung công tài sản, tài sản thuộc sở hữu của tổ chức, cá nhân thì sẽ bồi thường cho tổ chức, cá nhân. Tính hai mặt của lợi ích kinh tế dẫn đến hệ quả chính trị. Vì vậy, quy định về quốc hữu hóa là một trong những vấn đề “nhạy cảm” cần được quan tâm. Quy định quốc hữu hóa thể hiện quan điểm, chính sách của nhà nước Việt Nam đối với sự ổn định và phát triển của nền kinh tế, đặc biệt là sự ổn định và phát triển mọi mặt của đời sống xã hội. Tổng quan
Nền kinh tế Việt Nam vừa có tính chất chung của kinh tế thị trường, vừa có tính chất đặc thù của định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện ở một trong các tính chất sau: sở hữu công cộng và sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất giữ vai trò cơ bản trong nền kinh tế quốc dân. Hiện nay nước ta có chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia hoạt động thương mại, đã có văn bản hướng dẫn chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước để tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác trở thành doanh nghiệp nhà nước. trở thành đồng sở hữu của các doanh nghiệp này. Các doanh nghiệp, thay vì quốc hữu hóa, hình thành sở hữu công cộng xã hội chủ nghĩa.
Có thể thấy, quan điểm của Việt Nam về quốc hữu hóa hiện nay, nhất là về chế độ công hữu, đã thể hiện rõ quan điểm về đường lối xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nền kinh tế thị trường Việt Nam mang màu sắc đặc biệt bởi nó gắn liền với định hướng xã hội chủ nghĩa, nghĩa là mục tiêu chủ yếu là giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất, huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở đó trong đó từng bước nâng cao đời sống nhân dân.
Qua đó có thể thấy, phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là đòn bẩy thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh và bền vững, là phương tiện quan trọng để thực hiện xã hội hóa sản xuất và xây dựng xã hội chủ nghĩa, là cơ sở vật chất – kỹ thuật để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, quy định hiện hành của nước ta về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với sự tham gia của nhiều nền kinh tế, đa sở hữu không ghi nhận quốc hữu hóa. Mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ.