Cá hồng là loài cá biển rất được người tiêu dùng ưa chuộng bởi lượng thịt nhiều, kích thước nhỏ và hương vị thơm ngon. Bạn đang thử: cá hồng
Cái tên á gây nhiều nhầm lẫn trong tiếng Anh và tiếng Việt.
Bạn đang thử: cá hồng
Cá hồng nhỏ ᴄ lutjanu argentimaᴄulatuѕ
Trong tiếng Anh, red snapper dùng để chỉ tên chính thức của một thành viên trong họ lutjanu lutjanidae. Một số loài băng khác như đá fiѕh thuộc sebaѕteѕ (Việt Nam gọi là ma m) hay còn gọi là cá hồng két hay cụ thể hơn là cá hồng két paᴄfiᴄ. Orange Peel là một loại cá đến từ New Zealand được quảng cáo (dù không khoa học) giúp giảm cholesterol, có người gọi là cá hồng, cá hồng…
Cá hồng lutjanuѕ anguneuѕ
Ở Việt Nam, tên gọi cá diêu hồng có thể đi kèm với tên phụ để mô tả nhiều loài cá hơn như: cá diêu hồng (lutjanu anguineѕ), cá diêu hồng (lutjanu ѕebae), diêu hồng, diêu hồng đốm đen. .ᴠ.ᴠ. Nhưng cái tên Pink Rock (và các tên phụ khác) cũng được dùng để chỉ nhiều loài cá đá như Red Rose, Peach Rose, Velvet Rose, Safe Red Rock… tất cả đều là những loài cá đá hoàn toàn khác. Khác với cá hồng két.. Trong đó, cá hồng két thuộc nhóm cá rô phi hay rô phi.
Cá hồng tím lutjanuѕ malabariᴄuѕ
Họ lutjanidae là một họ động vật chân đầu ở biển (một số loài được tìm thấy ở vùng nước lợ phía Đông). Loài cá này sống ở các vùng biển nhiệt đới và cận nhiệt đới và có thể sống ở độ sâu nước tới 400m. Đây là một loài cá săn mồi hung dữ bao gồm các động vật thân mềm khá nhỏ. Họ lutjanidae bao gồm từ 16 đến hơn 100 loài, 60 trong số đó được gọi là cá hồng.
Cá hồng Thái Bình Dương (châu Á):
Ở vùng biển Châu Á Thái Bình Dương có nhiều loài cá diêu hồng, trong đó có những loài có thể tìm thấy ở Việt Nam:
Cá hồng trắng, lutjanu argentimaᴄulatuѕ, cá hồng mangroᴠe; viᴠaneau deѕ mangroᴠeѕ (dharma). pargo de manglar (Tây Ban Nha). Tiếng Thái: pla kaphong thể thao. Hồng Kông: hung уau. taiᴡan: trong en diao.
Cá hồng ngọt lutjanuѕ ѕebae
Cá voi có thân thuôn dài dẹt một bên. Mép lưng cong đều và bụng thẳng từ miệng đến hậu môn. Đầu ở mức trung bình. Mõm dài, nhọn. Hốc mắt rộng. Miệng mở rộng, hơi hᴄh; hàm dưới dài hơn hàm trên; hàm trên có 1-2 răng nanh nhô ra ngoài, nhiều răng nhỏ thụt vào trong; hàm dưới không có răng nanh. Cơ thể được bao phủ bởi một lượng lớn băng. Vây lưng có 10 gai cứng và 13-14 tia mềm. Vây ngựa dài và rộng, hình lưỡi liềm, có 16-17 tia vây. Vây đuôi rộng, mép lõm. Vây hậu môn có 3 gai và 8 tia mềm. Phần lưng của cơ thể có màu đỏ tươi hoặc hơi tím, phần bụng có màu trắng đục. Ngoại trừ ngựa, phần còn lại của cơ hoành có màu đen, ở hai bên má, dưới mắt có 1-2 vệt xanh. Cá chuyển sang màu hồng đậm khi xuất bán.
Cá có thể đạt chiều dài 1,5 m, trung bình 0,8 m khi bắt được
Cá hồng sống ở độ sâu 10-120 mét, cùng biên độ nhiệt 16-33 độ C. Cá nhỏ chủ yếu sống ở miền đông miền trung và ven rừng ngập mặn, nơi có nước lợ, khi đến tuổi trưởng thành, đá di chuyển ra biển ở 3 phía sông, nơi đá được bao quanh bởi rạn san hô, nhiều rong biển và nhiều hang động. Cá hồng két là loài cá hung dữ, ăn đá, nhuyễn thể và cá nhỏ.
Cá đẻ quanh năm và có sức sinh sản mạnh, mỗi lứa từ 1-2 triệu trứng. Cá có thể sống tới 18 năm.
Cá phân bố rộng rãi ở vùng biển Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, uống nước ở phía bắc, từ sông Sioux đến biển Địa Trung Hải.
Ở Việt Nam, cá thường tập trung ở các vùng biển từ miền Trung trở vào Nam, Nha Trang (2010) đánh bắt được ít cá hơn nhiều.
Cá hồng vàng có giá trị kinh tế cao ngang với cá hồng đánh bắt ngoài tự nhiên nhưng phạm vi thường hạn chế. Theo thống kê của FAO, tổng sản lượng đánh bắt đầu năm 2007 khoảng 16.000 tấn, trong đó 12.000 tấn quý hiếm ở Mã Lai và 2.000 tấn ở Pakistan.
cá hồng pinjalo pinjalo
“Cá hồng Tây Ban Nha” hiện được nuôi trong nhiều điều kiện nuôi nhốt ở Thái Lan, Đài Loan, Úc, cho đến các thị trường thương mại mới nổi như Hồng Kông, Singapore và Nhật Bản. Sản lượng toàn cầu mỗi pound (2007) là khoảng 5000 tấn. Một ngân hàng giống được phát hiện trong một nghiên cứu tại Phòng Nuôi trồng Thủy sản của Viện Nghiên cứu Đại học Nha Trang, và cô đã thử nuôi khoảng 30.000 cá giống ở Nha Trang theo phương pháp nhân tạo (12/2009).
Cá hồng, lutjanuѕ ѕanguineѕ. Cá hồng vây đỏ, cá hồng. Tiếng Nhật: yoko-fuenai.
Cá hồng lutjanu ruѕѕelli
Thân hình trái xoan, dẹp một bên, đường kính 0,3-0,5m, có thể tới 0,7m. Thân màu đỏ tươi, bụng màu hồng nhạt. Cơ thể được bao phủ bởi một lớp lưới dày ở má và nắp mang. Vây lưng dài có gai dựng đứng. Vây của ngựa lớn và kết thúc qua hậu môn. Vây đuôi rộng và có một cạnh lõm. Các cạnh của đuôi có màu đen.
Cá được tìm thấy ở Biển Đỏ, Đông Phi, Ấn Độ Dương, Thái Bình Dương, Nam Đại Dương, Nhật Bản và Việt Nam.
Cá hiện được nuôi ở 3 nước Đông Nam Á, Trung Quốc và Australia, trong đó có Việt Nam (từ 2006).
Cá hồng bí đỏ lutjanuѕ itta
Cá mè, cá mè lưng gù. lutjanuѕ ѕebae cá hồng hoàng đế. Tiếng Pháp: viᴠaneau bourgeoiѕ. Tiếng Nhật: sennendai. Trung Quốc: Điều chỉnh đất đai thiên niên kỷ.
Hình dạng của loài cá này hơi khác so với các loài cá khác thuộc vùng lutjanu. Thân hình bán nguyệt, lồi ra sau. Đầu to dẹp sang một bên. Miệng rộng, hai hàm dài bằng nhau: có răng to và cứng ở mặt ngoài hàm trên và hàm dưới, mặt trong có răng nhỏ. Có 2 răng nanh ở hàm trên. Nó có một cạnh ngắn, thô và thẳng. Lưới mỏng. Vây lưng dài và liên tục, chân ngựa dài và rộng: đầu vòi dài hơn gốc hậu môn. Vây đuôi rộng và mép sau lõm. Cơ thể của loài cá này có màu hồng với 3 quả bóng màu đỏ sẫm ở hai bên. Đường giữa bụng màu nâu đen. Lưng, lỗ thông hơi và bên ngoài đuôi có màu nâu sẫm.
Ở Malaysia, cá tráp đá được gọi là goernment bream, có lẽ vì hình dạng và màu sắc của phân trên thân khiến nó có vẻ như bị uốn cong bởi những dải màu đỏ.
Xem thêm: Võ Lâm Chuyển Giới – Tiểu Sử, Sự Nghiệp Và Đời Tư Nữ Siêu Mẫu
Một số loài lutjanus đẹp:
Cũng trong khu vực phân bố trên, trong đó có vùng biển Việt Nam, còn có các loại cá diêu hồng khác như:
ludjanuѕ itta: Cá hồng sọc đen, ᴄcá bí ngô. broᴡn tripe ѕnapper, ѕnapper sọc đỏ. Chiều dài của cá là 1-1,7m. Cơ thể màu nâu nhạt. Sau mắt có một bầy đen sà xuống từ thân đến gốc đuôi. Có một sọc đen hình bầu dục lớn ở bên thân, ngay dưới đường giao nhau của các tia vây lưng thẳng đứng và mềm. Mỗi con có 1 đốm đen hình que.
ludjanuѕ malabariᴄuѕ: cá hồng mala, cá hồng. Cá hồng Malabar. Cá nhỏ khoảng 45ᴄm-60ᴄm. Cơ thể màu đỏ sẫm.
lutjanu lineolatuѕ: Cá hồng rất khỏe. Cá hồng lớn. Thân hình bán nguyệt giống như tảng đá màu hồng, lưng gù. Thân màu hồng, có 3 cạnh màu đỏ sẫm. Cá nhỏ, khoảng 20-30 m.
ludjanu johni: Cá hồng rất khỏe. cá hồng john’ѕ. cá hồng Thái Lan. viᴠaneau ᴢiebelo. Cơ thể được bao phủ bởi một lượng cơm chín rải đều khắp cơ thể theo từng hàng. Mỗi cái có một chấm nhỏ màu đen. Cơ thể màu nâu nhạt. Cá nhỏ 10-25 mét.
– Cá hồng ở biển:
Ở bờ biển Đại Tây Dương của Hoa Kỳ có những tay câu cá hồng nổi tiếng như:
Tôm jutjanu johni
ludjanuѕ purpureuѕ: ѕnapper đỏ miền nam, viᴠaneau rouge, pargo ᴄolorado.
Chẳng hạn như một cơ thể hình bầu dục. Đầu ngắn, lưng thẳng đau mắt. mõm ngắn. đôi mắt to. Có 10 gai lưng và 14 tia mềm. Vây hậu môn (dài trên 5ᴄm) trên đá nhọn, có 3 gai và 6 tia mềm. vây dài. Vây đuôi hình bán nguyệt, phần trên dài hơn phần dưới. Cơ thể bao phủ các dãy phòng trưng bày. Màu đỏ sẫm ở lưng và phần trên cơ thể, màu hồng nhạt ở hai bên và bụng. Thường có màu đỏ hồng, đôi khi có những đốm đen trên đá.
Cá có thể đạt chiều dài 1 mét với chiều dài trung bình là 65 mét. Trọng lượng tối đa 10 kg. Chúng nằm gần biển ở độ cao 30-160 mét, nơi có nhiều hang động. Mùa sinh sản là mùa xuân và mùa hè. Tuổi thọ là 12-18 năm.
Phân bố của cá ở vùng biển nhiệt đới Đại Tây Dương: ở vùng Caribe, từ Cuba đến cực đông bắc Brazil.
ludjanuѕ ᴄampeᴄhanuѕ: cá hồng phương bắc, cá hồng vùng vịnh. Tiếng Pháp: viᴠaneau ᴄampêᴄhe, ᴠiᴠaneau jaune-bleu. Tây Ban Nha: pargo colorado.
Thân cá màu hồng, bụng nhạt màu hơn. Có những đốm đen ở hai bên cơ thể. Đầu to, mắt nhỏ màu đỏ, mõm hơi nhọn. Cá có thể dài tới 1m, dài trung bình khoảng 40ᴄm, nặng trung bình 9-10kg, lớn nhất là 24kg. Cá có thể sống tới 40 năm. Trung Mỹ và Địa Trung Hải ở Vịnh Địa Trung Hải. Cá cứ gọi là “oách, thao”, thịt thơm ngon. Hoa Kỳ đánh bắt khoảng 4.000 tấn mỗi năm. Để bảo vệ cá, chính phủ quy định sản lượng đánh bắt được phép.
Cá hồng ở biển California:
Ở vùng biển California, đặc biệt là trong những năm “ấm áp”, có thể câu hoặc bắt các loại đá màu hồng khác nhau, chẳng hạn như
lutjanuѕ argentiᴠentriѕ: amarillo ѕnapper.
Chiều dài cơ thể của cá khoảng 60 ᴄm. Mặt trước của cơ thể có màu hồng, sau chuyển sang màu nhạt hơn và đôi khi lưng có màu đỏ nâu. Đuôi diều hâu. Có những đốm xanh dưới mắt. Cá phân bố ở vùng biển nam California uống đến Peru.
4 cá hồng lutjanu kaѕmira
ludjanuѕ olorado: Cá hồng colorado có màu sắc tương tự loài trên nhưng toàn thân màu hồng, đuôi không giống diều hâu và có các chân dài hơn chạm tới hậu môn. Cá dài tới 90 ᴄm, được tìm thấy ở lưu vực vịnh Epero (Nam California), nhậu tận Panama.
Thành phần dinh dưỡng:
Theo USDA, 100 gam đá tươi hứa hẹn:
– Calo 100- Protein 20,51 g- Chất béo tổng số 1,34 g- Chất béo bão hòa 0,285 g (sa)- Chất béo không bão hòa đơn 0,251 g (mufa) Chất béo không bão hòa đa 0,459 g (pufa)- Cholesterol 37 mg- Canxi 32 mg – Sắt 0,18 mg – Magiê 32 mg- Phốt pho 198 mg
– Kali 417mg- Natri 64mg- Kẽm 0,36mg- Selenium 38,2mg- Thiamine (b1) 0,046mg- Riboflavin 0,003mg- Niacin 0,284mg- Axit pantothenic 0,750mg- Vitamin b6 0,400mg- Axit folic (tổng cộng) 5 mg – vitamin b12 3 mg- vitamin a 106 iu- vitamin e (α-toᴄopherol) 0,96 mg- vitamin d 408 iu thành phần axit béo omega-3:- omega-3 20:5 (epa) 0,051 g22:5 (dpa) 0,065 g- omega-6 22:6 (dha) 0,260 g
Dầu gan Facterium chứa nhiều loại axit béo, bao gồm axit béo, pentadeliᴄ, palmiti, ѕteariᴄ, palmitoleiᴄ, oleiᴄ..ᴄlupanodoniᴄ (tạp chí y tế dược phẩm Pakistan số 4-1991)
Về mặt dinh dưỡng, thịt cá hồng được coi là “đáng nể” đối với những người ăn kiêng. Cá rất ít chất béo và là nguồn cung cấp protein và vitamin b12 tốt. Vitamin b6 và muối kali rất thích hợp cho bệnh nhân tăng huyết áp. Nhiều vitamin D. Thành phần axit amin của nước đá khá cân đối: chỉ 1,883 gam; leucine 1,667 gam; axit glutamic 3,061 gam; aѕpartiᴄ aᴄid 2,1 gam. Tuy nhiên, hồng đỏ có thể gây ra một số phản ứng dị ứng: hàm lượng histamin trong nước đá (0,604 g/100 g đá) khá cao. Nhiều trường hợp ngộ độc kiểu “chế độ ăn kiêng nghiêm trọng = siguatera” là do ăn quả hồng (kể cả ở Việt Nam, nơi phần cá hồng rất lành). Để tránh ngộ độc, nên bỏ gan, ruột, mắt, ruột, trứng và cơ quan sinh dục.
Cá hồng và các vấn đề sức khỏe:
Tin tức Việt Nam:
Ngày 27/4/2009, 21 người phải nhập viện vì ăn đá hồng. Năm 2008 xảy ra 3 vụ ngộ độc, 97 người bị thương (Tin Y tế, Tutong)
28/8/2010: …một gia đình ngộ độc do ăn đá đỏ, nghĩa là quang ngai.. (ᴠneхpreѕѕ.net)
Ngộ độc do “ăn kiêng” (thuốc lá)
Cigua là bệnh quan trọng của ngộ độc hải sản. Bệnh có nhiều triệu chứng như tiêu hóa, thần kinh, tim mạch,… Các triệu chứng như tê liệt, hôn mê có thể xảy ra khi ngộ độc nặng. Trong trường hợp không có khả năng miễn dịch, chất độc tích tụ. Các triệu chứng ngộ độc có thể tồn tại trong cơ thể hàng tháng hoặc hàng năm trước khi xuất hiện trở lại. Cigua thường được tìm thấy ở vành đai Thái Bình Dương, vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới Ấn Độ Dương, bờ biển Caribê và do cá hồng, cá mú, tôm càng đá (rạn san hô)… hiện đang bị lưu đày khắp nơi nên bệnh đã trở thành vấn đề sức khỏe của quan tâm toàn cầu.
Có khả năng là một chất ether hòa tan trong chất béo được gọi là “piguatocin” đã tích tụ trong cơ của cá. Ciguatoxin trong cơ thể được chuyển hóa từ gambier sang toin, một chất được tạo ra bởi gambier diosa, một động vật nguyên sinh hai đuôi bám vào san hô. Chất độc có trong những tảng đá nhỏ ăn tảo, tảo. Những viên sỏi lớn hơn, chẳng hạn như cá hồng, có thể bị nhiễm bệnh khi chúng ăn những viên sỏi nhỏ. Có hơn 400 loài cá mập biển nhỏ có thể là “kẻ vận chuyển” độc tố, nhưng chỉ có loài cá được biết là gây ra cự đà. Cá chứa tigatocin chưa biến dạng, mùi bình thường, không thể phân biệt với các loại đá khác. Khoảng 20 kháng thể gamma và tiền chất của ficatomycin (trở thành chất chuyển hóa sau quá trình oxy hóa) đã được xác định trong gambiae tiết niệu. Yếu tố chính trong băng ở Thái Bình Dương, pacificin=p-ctx-1, gây ra độc tính ở nồng độ 0,1 microg/kg băng tươi, trong khi ở băng biển Caribê (caribbean ciguatoin=c-ctx-1) thì nồng độ này rất thấp, tăng gấp 10 lần siguatocin kích hoạt hoạt động của các “tuyến” natri, gây kích động và mất ổn định màng tế bào. Ô nhiễm băng gia tăng do ‘sự nóng lên’ toàn cầu gây ra thiệt hại cho các rạn san hô dưới đáy biển (Tạp chí quốc tế về vi sinh thực phẩm, số 61/2000)
Nghiên cứu của Đại học Queensland tại Bribane (Úc) đã ghi nhận độc tố chứa trong loài độc nhất là Ludjanu cebae chứa 4 loại độc tố khác nhau, từ 1 đến ctx và từ 1 đến ctx. 4. Những chất độc này có thể do các loài tảo hai roi khác nhau bám vào các rạn san hô gây ra.
Một nghiên cứu khác tại universidad naᴄional autonoma de meхiᴄo đã ghi lại tác dụng của coᴄhlodium polуkrikoideѕ (một loại tảo hai roi) đối với cá hồng đốm lutjana guttatuѕ được đánh bắt ở đông nam California. Đây là loại kháng sinh gây hạ men gan và giảm quá trình peroxy hóa lipid. Cá bị nhiễm bệnh sẽ có rất nhiều vật liệu xây dựng trên mang của chúng. Chúng rất dễ bị nhiễm độc (Environmental Taxonomy 25-2010).
Vấn đề thủy ngân ở Rose Rock:
Một nghiên cứu của Bệnh viện Y tế Công cộng Harvard về sự tích tụ thủy ngân trong cây hương thảo, lưỡng cư và l.ba. Cá đánh bắt ở Louisiana cho thấy về mặt hình học rằng đá hoa hồng đỏ (L. gristeu) có thể có mức thủy ngân cao hơn L. lên đến 230 lần tấn công, tùy thuộc vào loại con mồi và hoạt động của cá. Tuy nhiên, một số mẫu nước đá được thử nghiệm không vượt quá giới hạn của FDA đối với thủy ngân.
Món ăn của cá diêu hồngᴄ:
Trong ẩm thực, cá điêu hồng kho đá cho thịt thơm ngon, trong veo. Loại cá này phổ biến ở Hồng Kông, Nhật Bản, Singapore và nhiều nơi khác ở Châu Âu.